6.18.2009

12 thủ thuật bảo mật cho Linux


Trong bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu một số kinh nghiệm nhằm nâng cao tính an toàn cho một hệ thống Linux (để dễ theo dõi cho bạn đọc, chúng tôi sẽ minh hoạ bằng RedHat, một phiên bản Linux rất phổ biến ở Việt Nam và trên thế giới).

Hiện nay, trên môi trường máy chủ, Linux ngày càng chiếm một vị trí quan trọng. Nguyên nhân khiến Linux dần trở thành một đối thủ tiềm nǎng của hệ điều hành Microsoft Windows là do tính ổn định, độ linh hoạt và khả nǎng chịu tải lớn: đây là những đặc điểm quan trọng hàng đầu của một hệ thống máy phục vụ.

Tính bảo mật tốt cũng là một trong những điểm nổi bật của Linux. Tuy nhiên, để một hệ thống Linux có khả nǎng chống lại các cuộc tấn công, người quản trị cũng cần phải nắm được một số kỹ nǎng nhất định. Trong bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu một số kinh nghiệm nhằm nâng cao tính an toàn cho một hệ thống Linux (để dễ theo dõi cho bạn đọc, chúng tôi sẽ minh hoạ bằng RedHat, một phiên bản Linux rất phổ biến ở Việt Nam và trên thế giới).

1.1. Loại bỏ tất cả các account và nhóm đặc biệt

Ngay sau khi cài đặt Linux, người quản trị nên xoá bỏ tất cả các account và nhóm (group) đã được tạo sẵn trong hệ thống nhưng không có nhu cầu sử dụng, ví dụ như lp, sync, shutdown, halt, news, uucp, operator, games, gopher, v.v... (Tuy nhiên bạn đọc cần biết rõ những account và nhóm nào không cần cho hệ thống của mình rồi hãy xoá)

Thực hiện việc xoá bỏ account với lệnh :

# userdel

Ví dụ, nếu không có nhu cầu về in ấn trên hệ thống, có thể xoá account lp như sau:

# userdel lp

Tương tự như vậy, có thể thực hiện việc xoá bỏ các nhóm không cần thiết với lệnh

# groupdel

2.2. Che giấu file chứa mật khẩu

Từ lịch sử xa xưa của Unix và cả Linux, mật khẩu của toàn bộ các account đã từng được lưu ngay trong file /etc/password, file có quyền đọc bởi tất cả các account trong hệ thống! Đây là một kẽ hở lớn cho các kẻ phá hoại: Mặc dù các mật khẩu đều được mã hoá, nhưng việc giải mã ngược là có thể thực hiện được (và có thể thực hiện khá dễ dàng, đặc biệt vì cơ chế mã hoã mật khẩu không phải là khó phá và ngày nay khả nǎng tính toán và xử lý của máy tính rất mạnh). Vì lí do trên, gần đây các nhà phát triển Unix và Linux đã phải đặt riêng mật khẩu mã hoá vào một file mà chỉ có account root mới đọc được: file /etc/shadow. (Khi sử dụng phương pháp này, để đảm bảo tính tương thích, nơi vốn đặt mật khẩu trong file /etc/password người ta đánh dấu "x")

Nếu bạn đọc đang sử dụng các phiên bản RedHat gần đây (ví dụ RedHat 6.x hay 7.x) thì nhớ chọn lựa Enable the shadow password khi cài đặt RedHat để sử dụng tính nǎng che giấu mật khẩu này (Cũng thật may vì chọn lựa này là mặc định trong hầu hết các phiên bản Linux đang sử dụng rộng rãi hiện nay)

3.3. Tự động thoát khỏi shell

Người quản trị hệ thống rất hay quên thoát ra khỏi dấu nhắc shell khi kết thúc công việc. Bản thân tôi cũng đã từng nhiều lần khi đang thực hiện việc quản trị với account root thì bỏ đi vì một số công việc khác. Thật nguy hiểm nếu lúc đó có một kẻ phá hoại ở đó: Kẻ này có thể dễ dàng có quyền truy xuất hệ thống ở mức cao nhất mà chẳng cần tốn một chút công sức nào cả.

Để giảm nguy cơ này, người quản trị nên cài đặt tính nǎng tự động thoát ra khỏi shell khi không có sự truy xuất nào trong một khoảng thời gian định trước bằng cách đặt một tham số quy định khoảng thời gian hệ thống vẫn duy trì dấu nhắc shell.

Muốn cài đặt tham số này, người sử dụng biến môi trường TMOUT và gán cho nó một giá trị số thể hiện khoảng thời gian tính bằng giây hệ thống vẫn duy trì dấu nhắc. Để thực hiện điều này cho tất cả các account trong hệ thống, cách đơn giản nhất là đặt nó vào file /etc/profile dòng lệnh sau: (giả sử ta đặt khoảng thời gian là 600 giây)

TMOUT=600

Như vậy là nếu trong khoảng 10 phút người sử dụng không truy xuất shell, shell sẽ tự động thoát ra. Tuy nhiên cần chú ý: Mẹo này sẽ không "ǎn" nếu lúc đó người dùng đang chạy một chương trình nào đó như vi hay mc,... Có nghĩa là người dùng phải đang làm việc trực tiếp với shell chứ không phải với bất kỳ một chương trình nào khác.

4.4. Loại bỏ các dịch vụ không sử dụng

Một điều khá nguy hiểm là sau khi cài đặt, hệ thống tự động bật chạy khá nhiều dịch vụ (và đa số là các dịch vụ không mong muốn), dẫn tới tốn tài nguyên và gây nên nhiều nguy cơ về bảo mật. Người quản trị nên loại bỏ ngay lập tức các dịch vụ không dùng tới ngay sau khi cài máy. Hoặc đơn giản bằng cách xoá bỏ các gói phần mềm/dịch vụ không sử dụng (qua công cụ quản trị gói phần mềm rpm của RedHat) hoặc sử dụng công cụ ntsysv để duyệt xem tất cả các dịch vụ đang cài đặt rồi vô hiệu hoá những dịch vụ không cần thiết (bằng cách bỏ đánh dấu các dịch vụ không sử dụng với phím Space). Sau khi thoát ra khỏi ntsysv thì khởi động lại máy: các dịch vụ không mong muốn sẽ không chạy nữa.

5.5. Không tiết lộ thông tin về hệ thống qua telnet

Dịch vụ cho phép truy xuất hệ thống từ xa telnet có khả nǎng tiết lộ thông tin về hệ thống, dễ tạo điều kiện cho những kẻ phá hoại tấn công dựa vào những điểm yếu đã biết. Điều này rất dễ nhận thấy: Mọi người dùng kết nối từ xa vào dịch vụ telnet đều nhận được thông tin về tên máy, phiên bản Linux và phiên bản của nhân (kernel) của máy chủ.

Để tránh điều này, ta cần thực hiện việc kích hoạt telnetd (telnet server) với tham số -h. (Tham số -h sẽ ngǎn telnet tiết lộ các thông tin và chỉ in ra dấu nhắc "Login:" cho những người kết nối từ xa).

Do các phiên bản RedHat 7.x khi chạy telnetd không còn sử dụng inetd nữa (mà sử dụng xinetd - một phiên bản nâng cấp và có nhiều cải tiến so với inetd) nên cách cấu hình lại telnetd sẽ khác nhau tuỳ theo phiên bản RedHat đang sử dụng.

+ Với các phiên bản RedHat 6.x và trước đó, thực hiện các bước sau:

Trong file /etc/inetd.conf, thay đổi dòng

telnet stream tcp nowait root /usr/sbin/tcpd in.telnetd

chuyển thành :

telnet stream tcp nowait root /usr/sbin/tcpd in.telnetd -h

Tiếp theo, khởi động lại inetd bằng câu lệnh:

# /etc/rc.d/init.d/inetd restart

+ Với các phiên bản RedHat 7.x, thực hiện bước sau:

Trong file /etc/xinetd.d/telnet , thêm chọn lựa:

server_args = -h

File trên sẽ có dạng như sau;

Trích:
service telnet
{
disable = yes
flags = REUSE
socket_type = stream
wait = no
user = root
server = /usr/sbin/in.telnetd
log_on_failure += USERID
server_args = -h
}
Tiếp theo, khởi động lại xinetd bằng câu lệnh:

# /etc/rc.d/init.d/xinetd restart

6.6. Tránh sử dụng các dịch vụ không mã hoá thông tin trên đường truyền

Mặc dù ở trên chúng tôi đã trình bày cách ngǎn dịch vụ telnet tiết lộ thông tin, nhưng chúng tôi xin có lời khuyên: Tuyệt đối tránh sử dụng những dịch vụ kiểu như telnet, ftp (ngoại trừ ftp anonymous) vì những dịch vụ này hoàn toàn không hề mã hoá mật khẩu khi truyền qua mạng. Bất kỳ một kẻ phá hoại nào cũng có thể dễ dàng "tóm" được mật khẩu của bạn bằng những công cụ nghe lén kiểu như sniffer.

Ơ' những trường hợp có thể, nên sử dụng dịch vụ ssh thay thế cho cả ftp và telnet: dịch vụ SSH (Secure Shell) dùng cơ chế mã hoá công khai để bảo mật thông tin, thực hiện mã hoá cả mật khẩu lẫn thông tin chuyển trên đường truyền. Hiện đang được sử dụng khá rộng rãi, gói phần mềm của SSH cũng được đóng kèm trong hầu hết các phiên bản gần đây của Linux. Chẳng hạn, các phiên bản RedHat từ 7.0 trở lên mặc định đều cài OpenSSH, một sản phẩm mã nguồn mở có thể sử dụng hoàn toàn miễn phí. (Bạn đọc có thể tham khảo website www.openssh.org về sản phẩm này).

Ngoài ra, những dịch vụ "r" kiểu như rsh, rcp hay rlogin chúng tôi cũng khuyên nên tuyệt đối tránh sử dụng. Lý do là các dịch vụ này ngoài việc truyền mật khẩu không mã hoá còn thực hiện việc kiểm tra quyền truy xuất dựa trên địa chỉ máy kết nối, là một điều cực kỳ nguy hiểm. Các kẻ phá hoại sử dụng kỹ thuật spoofing đều có thể dễ dàng đánh lừa được cách kiểm tra này khi "làm giả" được địa chỉ của máy truy xuất dịch vụ hợp lệ.

7. 7. Cấm sử dụng account root từ consoles

Có thể bạn đọc đều nhận thấy, ngay sau khi cài đặt RedHat, account root sẽ không có quyền kết nối telnet vào dịch vụ telnet trên hệ thống (chỉ những account thường mới có thể kết nối). Nguyên nhân là do file /etc/securetty quy định những console được phép truy nhập bởi root chỉ liệt kê những console "vật lý" (tức là chỉ truy xuất được khi ngồi trực tiếp tại máy chủ) mà bỏ qua những kết nối qua mạng. Dịch vụ ftp cũng sẽ bị hạn chế này: account root không được phép truy xuất ftp qua mạng.

Để tǎng tính bảo mật hơn nữa, soạn thảo file /etc/securetty và bỏ đi những console bạn không muốn root truy nhập từ đó.

8.8. Cấm "su" lên root

Trong Linux, lệnh su (Substitute User) cho phép người dùng chuyển sang một account khác. Nếu không muốn một người bất kỳ "su" thành root, thêm hai dòng sau vào nội dung file /etc/pam.d/su

auth sufficient /lib/security/pam_rootok.so debug
auth required /lib/security/Pam_wheel.so group=wheel

Như vậy, chỉ có những người có đǎng ký là thành viên của nhóm wheel mới có quyền "su" thành root. Để cho phép một người dùng có quyền này, người quản trị chỉ việc gán account của người này vào nhóm wheel (qua file /etc/group)

9.9. Hạn chế các thông tin ghi bởi bash shell

Thông thường, tất cả các lệnh được thực hiện tại dấu nhắc shell của các account đều được ghi vào file ".bash_history" nằm trong thư mục cá nhân của các account. Điều này cũng gây nên những nguy hiểm tiềm ẩn, đặc biệt với những ứng dụng đòi hỏi phải gõ các thông mật như mật khẩu trên dòng lệnh. Người quản trị nên hạn chế nguy cơ này dựa trên 2 biến môi trường HISTFILESIZE và HISTSIZE: Biến môi trường HISTFILESIZE xác định số lệnh (gõ tại dấu nhắc shell) sẽ được lưu lại cho lần truy nhập sau, còn biến môi trường HISTSIZE xác định số lệnh sẽ được ghi nhớ trong phiên làm việc hiện thời. Ta có thể giảm giá trị của HISTSIZE và đặt bằng 0 giá trị HISTFILESIZE để giảm tối đa những nguy hiểm đã nêu trên.

Để thực hiện việc này, chỉ cần đơn giản thay đổi giá trị hai biến này trong file /etc/profile như sau:

HISTFILESIZE=0
HISTSIZE=20

Như vậy, tại phiên làm việc hiện thời, shell chỉ ghi nhớ 20 lệnh gần nhất, đồng thời không ghi lại các lệnh người dùng đã gõ khi người dùng thoát ra khỏi shell.

10.10. Cấm nhòm ngó tới những file script khởi động Linux

Khi khởi động Linux, các file script được đặt tại thư mục /etc/rc.d/init.d sẽ được thực hiện. Để tránh những sự tò mò không cần thiết, người quản trị nên hạn chế quyền truy xuất tới những file này chỉ cho account root bằng lệnh sau:

# chmod -R 700 /etc/rc.d/init.d/*

11.11. Xoá bỏ những chương trình SUID/SGID không sử dụng

Thông thường, những ứng dụng được thực hiện dưới quyền của account gọi thực hiện ứng dụng. Tuy nhiên, Unix và Linux sử dụng một kỹ thuật đặc biệt cho phép một số chương trình thực hiện dưới quyền của người quản lý chương trình (chứ không phải người thực hiện). Đây chính là lý do tại sao tất cả mọi user trong hệ thống đều có thể đổi mật khẩu của mình trong khi không hề có quyền truy xuất lên file /etc/shadow: Nguyên nhân vì lệnh passwd có gán thuộc tính SUID và được quản lý bởi root, mà chỉ có root mới có quyền truy xuất /etc/shadow.

Tuy nhiên, khả nǎng này có thể gây nên những nguy cơ tiềm tàng: Nếu một chương trình có tính nǎng thực thi được quản lý bởi root, do thiết kế tồi hoặc do được cài đặt cố tình bởi những kẻ phá hoại mà lại có thuộc tính SUID thì mọi điều tồi tệ đều có thể xảy ra. Thực tế cho thấy, khá nhiều kỹ thuật xâm nhập hệ thống mà không có quyền root được thực hiện nhờ kỹ thuật này: kẻ phá hoại bằng cách nào đó tạo được một shell (ví dụ bash) được quản lý bởi root, có thuộc tính SUID. Sau đó mọi truy xuất phá hoạt sẽ được thực hiện qua shell này vì mọi lệnh thực hiện trong shell sẽ được thực hiện dưới quyền của root.

Thuộc tính SGID cũng tương tự như thuộc tính SUID: các chương trình được thực hiện với quyền nhóm là nhóm quản lý chương trình chứ không phải nhóm của người chạy chương trình.

Như vậy, người quản trị sẽ phải thường xuyên kiểm tra xem trong hệ thống có những ứng dụng nào có thuộc tính SUID hoặc SGID mà không được phép không?

Để tìm tất cả các file có thuộc tính SUID/SGID, sử dụng lệnh find như sau:

# find / -type f \( -perm -04000 -o -perm -02000 \) \-exec ls ưlg {} \;

Nếu phát hiện được một file có thuộc tính SUID/SGID một cách không cần thiết, có thể loại bỏ các thuộc tính này bằng lệnh:

# chmod a-s

12.12. Tǎng tính bảo mật cho nhân (kernel) của Linux

Thực tế cho thấy, Linux không hẳn được thiết kế với các tính nǎng bảo mật thật chặt chẽ: khá nhiều lỗ hổng có thể bị lợi dụng bởi những tin tặc thông thạo về hệ thống. Do đó, việc sử dụng một hệ điều hành với nhân được củng cố là rất quan trọng: Một khi nhân - phần cốt lõi nhất của hệ điều hành - được thiết kế tốt thì nguy cơ bị phá hoại sẽ giảm đi rất nhiều.

Bạn đọc có thể xem xét việc củng cố nhân Linux thông qua các miếng vá (patch). Tôi xin giới thiệu một trong những website tốt nhất chuyên cung cấp các miếng vá bổ sung cho nhân Linux về bảo mật tại địa chỉ www.grsecurity.net. Tại đây bạn đọc có thể tìm hiểu thông tin hữu ích và tải xuống các miếng vá bổ sung cho hệ thống Linux của mình.

(Sưu tầm)